MỤC LỤC
Thực hiện theo Nghị quyết số 53 – NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 27 – KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI v/v phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Nam Bộ đảm bảo quốc phòng an ninh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Tình hình hiện tại của khu vực Đông Nam Bộ
Năm 2020, quy mô tổng sản phẩm toàn vùng (GRDP) theo giá hiện hành gấp 2,6 lần so với năm 2010 và 4,9 lần so với năm 2005, kết quả vượt mục tiêu đề ra đóng góp 32% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 44,7% tổng doanh thu ngân sách cả nước. GRDP bình quân đầu người năm 2020 cao nhất cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích; tỉ trọng công nghiệp chế biến, tỉ trọng khu vực dịch vụ tăng cao; tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt mức cao nhất cả nước.
Bên cạnh những điểm mạnh về phát triển kinh tế tư nhân, hoạt động lĩnh vực xã hội, cải cách hành chính được đẩy mạnh thì vẫn còn một số điểm hạn chế về: Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; một số chỉ tiêu quan trọng chưa đạt như đề ra. Tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng chậm lại và thấp hơn cả nước; đóng góp vào tổng thu ngân sách nhà nước giảm, tốc độ tăng năng suất lạo động còn thấp; công tác quy hoạch và triển khai thực hiện các quy hoạch còn chậm. Đặc biệt, mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng nhất là hạ tầng giao thông còn yếu, chưa đủ để đồng bộ, điều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển của vùng.

Một số công trình trọng điểm chậm tiến độ, trình trạng tắc nghẽn giao thông, ngập úng nghiêm trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh chậm được khắc phục. Khoa học – công nghệ; đổi mới sáng tạo chưa đóng góp nhiều vào đổi mới mô hình tăng trưởng; chưa làm chủ được công nghệ cao, công nghệ lõi; công nghệ nguồn trong những ngành chủ lực. Công nghệ phát triển thiếu bền vững, chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm; phân bố các khu chế công nghiệp, chế xuất chưa hợp lý.
Chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trình trạng quá tải ở các trường học, cơ sở đào tạo cùng giáo dục nghề nghiệp, cơ sở khám, chữa bệnh công lập khắc phục chậm trễ; năng lực y tế dự phòng và các cơ sở ý tế chưa đáp ứng được những tình huống dịch bệnh bất thường.
Tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước, rác thải chậm được cải thiện. Nhà ở xã hội, nhất là nhà ở cho các công nhân làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa đáp ứng yêu cầu. Khoảng cách giàu – nghèo chậm được thu hẹp. Liên kết nội vùng cũng như liên kết vùng chưa được hiệu quả. An ninh chính trị, an toàn xã hội tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp và công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị ở một số nơi chưa được đáp ứng yêu cầu.
Mục tiêu cụ thể phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
Đông Nam Bộ trở thành khu vực phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước; là trung tâm khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, logistics và trung tâm tài chính quốc tế có tính cạnh tranh trong khu vực. Mục tiêu dẫn đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Phát triển nhanh hệ thống đô thị thông minh và hiện đại.
Thành phố Hồ Chí Minh phải là thành phố văn minh, hiện đại, năng động sáng tạo, nơi đây thu hút nhân tài, chuyên gia, nhà khoa học, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đến sinh sống và làm việc: trung tâm tài chính quốc tế; phát triển ngang tầm các thành phố lớn trong khu vực châu Á, đóng vai trò là cực tăng cường của vùng; nơi tập trung các định chế tài chính quốc tế và các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới.

Ngoài ra, những chỉ tiêu cụ thể trong năm 2030 phải kể đến gồm:
- Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân trong giai đoạn 2021 – 2030 dự kiến đạt khoảng 8 – 8,5%.
- Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 380 triệu đồng tương đương 14.500 USD; tỉ trọng khu vực dịch vụ chiếm 41,7% trong GRDP, khu vực công nghiệp và xây dựng 45,3%, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2,3%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp 10,7%; các tỉ trọng kinh tế số trong GRDP khoảng 30 – 35%; tỷ lệ đô thị hóa đạt 70 – 75%; 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
- Giai đoạn 2021 – 2030, tốc độ tăng năng suất lao động đạt khoảng 7%; đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng khoảng 56%.
- Đến năm 2030, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt khoảng 40 – 45%; tỉ lệ thất nghiệp duy trì ở mức dưới 3%; đạt 32 giường bệnh và 11 bác sĩ trên 10.000 dân; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 95%.
- Đến năm 2030, tỉ lệ che phủ rừng đạt khoảng 19,6%; tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 100%, nông thôn là 95%; 100% khu công nghiệp, khu chế xuất hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; 95% chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý theo quy định; 98% chất thải nguy hại được thu gom, vận chuyển, xử lý theo quy định.
Nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Nam Bộ
Phát triển nhanh, bền vững tạo bước đột phá, lan toả trong phát triển kinh tế vùng, liên vùng
Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, chú trọng vào khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đi đầu trong việc phát triển các ngành ô tô, các ngành dịch vụ cao cấp, chất lượng cao. Cơ cấu phát triển các ngành công nghiệp gồm: Cơ khí chế tạo, hóa dầu, sản phẩm hạ nguồn của ngành công nghiệp hóa dầu, chế biến sản phẩm từ dầu, hóa chất.
Ưu tiên phát triển những công nghiệp mũi nhọn, tăng cường kết nối các khu công nghiệp, khu chế xuất để hình thành những cụm liên kết công nghiệp. Và tập trung thu hút các dự án khu công nghệ lớn có khả năng tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xây dựng mới các khu công nghệ thông tin tại TP. HCM và hình thành vùng động lực công nghiệp công nghệ thông tin, thu hút đầu tư sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, một số sản phẩm internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo AI tại tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Phát triển vùng trở thành trung tâm dịch vụ của khu vực Đông Nam Á về tài chính, thương mại, du lịch, giao lưu quốc tế. Phát triển dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; công nghệ thông tin – viễn thông; khoa học – công nghệ; du lịch; logistics… Phát triển mạnh, đồng bộ hệ thống logistics cấp quốc gia, quốc tế gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, các trục hành lang kinh tế trọng điểm và tuyến thương mại liên vùng tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, Long Thành, Nhơn Trạch (tỉnh Đồng Nai), thị xã Phú Mỹ (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), tỉnh Tây Ninh.

Tập trung xây dựng trung tâm logistics hàng không gắn với cảng hàng không quốc tế Long Thành, đầu tư phát triển hệ thống logistics cảng và cảng trung chuyển quốc tế tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế cửa khẩu quốc tế tại các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, phát triển khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài theo hướng công nghiệp – đô thị – thương mại – dịch vụ gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hình thành trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh lại cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, sinh thái, bền vững, áp dụng quy trình sản xuất an toàn. Đổi mới phương thức quản trị, tăng cường liên kết, đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Bảo vệ nghiêm diện tích rừng hiện có. Tăng cường bảo vệ đa dạng sinh học trong các khu dữ trữ sinh quyển, rừng ngập mặn, rừng đặc dụng, vườn quốc gia Cần Giờ, Bù Gia Mập, Côn Đảo, Cát Tiên, Lò Gò – Xa Mát.
Phát triển mạnh hơn về kinh tế biển, dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải, công nghiệp khai thác, chế biến dầu khí. Phát triển Bà Rịa – Vũng Tàu thành trung tâm kinh tế biển, bao gồm cảng du lịch và các loại hình sinh thái, nghỉ dưỡng, văn hóa, thể thao. Những tiểu vùng như Thành phố Hồ Chí Minh, khu vực phía Nam tỉnh Bình Dương và Tây Nam tỉnh Đồng Nai là trung tâm phát triển của toàm khu vực.
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị hạt nhân, tập trung chuyển nhanh sang dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ tài chính quốc tế. Tiểu vùng ven biển gồm khu vực Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh) và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là khu vực phát triển mạnh các ngành kinh tế biển: Cảng biển, logistics, khai thác dầu khí, hoá dầu, du lịch biển, đảo, khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Hình thành khu thương mại tự do gắn với cảng biển tại khu vực Cái Mép Hạ.
Phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đô thị
Phát triển khoa học – công nghệ đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế vùng. Chủ động, đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ sinh học, tự động hóa. Hình thành trung tâm nghiên cứu đạt tiêu chuẩn quốc tế ở một số trường đai học; khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học thành lập doanh nghiệp khoa học – công nghệ để sớm chuyển giao công nghệ.
Phát triển khoa học – công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế vùng. Chủ động, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ số, sinh học, tự động hoá, vật liệu mới. Nâng cao chất lượng đội ngũ nghiên cứu khoa học – công nghệ, nhất là các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ cao, hình thành và đẩy mạnh phát triển trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Ưu tiên phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông. Tập trung hoàn thiện mạng lưới giao thông theo vận tải theo quy hoạch, tập trung phát triển mạng lưới đường bộ cao tốc, đường vành đai Thành phố Hồ Chí Minh. Kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng biển. Tập trung xử lý ô nhiễm môi trường, quá tải hạ tầng xã hội, y tế, giáo dục nhất là tình trạng tắc nghẽn giao thông, ngập úng tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Đến năm 2026 hoàn thành đường vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh và mở rộng Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất. Phấn đấu đến năm 2030: Hoàn thành đường vành đai 4 Thành phố Hồ Chí Minh; tập trung nguồn lực để đầu tư xây dựng các công trình giao thông theo quy hoạch đã được duyệt như Biên Hoà – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài, Thành phố Hồ Chí Minh – Chơn Thành, Dầu Giây – Liên Khương, Gò Dầu – Xa Mát, Chơn Thành – Đức Hoà, Chơn Thành – Gia Nghĩa; nâng cấp, mở rộng hệ thống cao tốc quốc lộ: Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương, Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây, tuyến kết nối Cảng hàng không quốc tế Long Thành (Quốc lộ 20B).
Cải tạo cơ bản đạt cấp kỹ thuật các tuyến luồng đường thủy nội địa, hình thành các cụm cảng phục vụ như cầu thu gom, giải tỏa hàng hóa cho các cảng biển lớn trong vùng; tiếp tục phát triển; hiện đại hóa Cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép – Thị Vải thành cảng quốc tế trung chuyển lớn tầm cỡ khu vực châu Á và quốc tế; xây dựng Cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ, TP. HCM; hoàn thành di dời cảng trên sông Sài Gòn, phát triển hệ thống cảng cạn theo quy hoạch; đưa vào khai thác Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn I; đầu tư mở rộng Cảng hàng không Côn Đảo, nâng cấp cảng hàng không Biên Hòa – Vũng Tàu thành lưỡng dụng cấp 4E.
Phát triển văn hoá – xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Phát triển tòa diện, đồng bộ lĩnh vực văn hóa – xã hội từ đó tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Đầu tư thích đáng cho phát triển văn hóa, thể dục – thể thao và bảo vệ phát huy những giá trị di sản văn hóa đặc trưng của TP. HCM và vùng Đông Nam Bộ gắn với phát triển kinh tế – xã hội. Quy hoạch và phát triển các trung tâm dịch vụ vui chơi giải trí mang tầm quốc tế góp phần nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho người dân. Kết hợp phát triển văn hóa, xã hội, giảm nghèo, tạo việc làm đảm bảo an sinh xã hội. Thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia.

Đem lại sự chuyển biến mạnh mẽ trong chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Dẫn đầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo, thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông và giáo dục đại học. Tập trung đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cao, nhất là trong lĩnh vực ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ; đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường. Có chế độ đãi ngộ, thu hút nhân tài làm việc trong vùng. Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng của khu vực ASEAN trong một số lĩnh vực có thế mạnh; tỉnh Bình Dương, Đồng Nai thành trung tâm giáo dục – đào tạo, giáo dục nghề nghiệp cấp vùng và quốc gia.
Tăng cường chăm sóc sức khỏe nhân dân với hệ thống y tế chất lượng, tiếp cận dịch vụ kỹ thuật cao. Quan tâm đầu tư hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, tăng cường đầu tư phát triển các bệnh viện tuyến Trung ương đặt tại TP. HCM, các bệnh viện đa khoa cấp vùng, trung tâm y tế chuyên sâu có tầm cỡ khu vực và quốc tế đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh trong và ngoài nước. Phát triển những bệnh viện vệ tinh của các bệnh viện trung ương tại các đô thị tỉnh lị như: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Tây Ninh. Nghiên cứu đầu tư phát triển Trung tâm kiểm soát bệnh tật vùng để đảm nhận vai trò hỗ trợ Trung tâm kiểm soát bệnh tật cho các tỉnh lân cận và khả năng liên kết quốc tế.
>>> Xem thêm: Năm 2023 – Kích hoạt hàng loạt dự án hạ tầng giao thông trọng điểm tại TP.HCM