MỤC LỤC
Hôm qua ngày 23/10, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) Nguyễn Văn Thắng trình bày tham luận về “Tháo gỡ điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng giao thông đáp ứng nhu cầu phát triển vùng Đông Nam Bộ” trong hội nghị triển khai thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế xã hội bảo đảm quốc phòng vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Vùng Đông Nam Bộ sở hữu vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của cả nước. Hệ thống giao thông vùng Đông Nam Bộ có đầy đủ 5 phương thức vận tải đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt, hàng hải và hàng không.

Thực trạng hệ thống giao thông vùng Đông Nam Bộ
Đường bộ
Trong đó, 2 tuyến cao tốc TP. HCM – Trung Lương – Mỹ Thuận và TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây đang khai thác. Bên cạnh đó, một số đoạn tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Đông được tiếp tục đầu tư xây dựng. Phần lớn tuyến quốc lộ trong vùng từng bước được đầu tư cải tạo. đoạn Tân Vạn – Bình Chuẩn thuộc đường vành đai 3 TP. HCM đã được lên kế hoạch đầu tư và chuẩn bị xây dựng.
Đường sắt
Tuyến đường sắt quốc gia Bắc – Nam qua Vùng Đông Nam Bộ với tổng chiều dài khoảng 110km. Hiện nay chất lượng hạ tầng thấp, kết nối với đường bộ chưa đáp ứng yêu cầu.
Đường thủy
Có 4 tuyến hành lang chính đóng vai trò kết nối nội vùng và liên vùng. Trong đó có 2 tuyến kết nối TP. HCM với Đồng bằng sông Cửu Long, 1 tuyến kết nối TP. HCM với Đồng Nai, Bình Dương và 1 tuyến kết nối TP. HCM với cảng biển Cái Mép – Thị Vải. Như vậy, cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải.

Hệ thống cảng biển trong vùng được đầu tư theo quy hoạch, trong đó Cảng Cái Mép – Thị Vải hiện thuộc nhóm cảng có tốc độ tăng trưởng nhanh, là một trong 21 cảng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải 200.000 DWT.
Đường hàng không
Hiện nay, có 2 sân bay (Tân Sơn Nhất, Côn Đảo) đang được khai thác vận hành và tiếp tục được đầu tư và mở rộng. Sắp tới khi sân bay Long Thành hoàn thiện vào năm 2025 với công suất khoảng 25 triệu hành khách/năm sẽ giảm áp lực cho sân bay Tân Sơn Nhất.
“Hiện nay, nguồn lực được tập trung đầu tư hạ tầng vùng Đông Nam Bộ để cải thiện điều kiện kết nối vùng, liên vùng tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội, kéo giảm chi phí logistics. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vẫn tồn tại nhiều hạn chế và điểm nghẽn gây cản trở sự phát triển”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết.
Ông Nguyễn Văn Thắng cũng chia sẻ về dự kiến tổng nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng giao thông vùng Đông Nam Bộ khoảng 738.500 tỷ đồng, trong đó, giai đoạn 2021 – 2025 cần khoảng 342.000 tỷ, giai đoạn 2026 – 2030 khoảng 396.500 tỷ đồng.
Trong đó, đầu tư các tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam, cao tốc nối TP. HCM với các cửa ngõ, các đầu mối giao thông quan trọng và các đường vành đai thuộc khu vực TP. HCM gồm hoàn thành đường Vành đai 3, Vành đai 4, Bến Lức – Long Thành, TP.HCM – Mộc Bài, TP. HCM – Chơn Thành, Biên Hòa – Vũng Tàu, Dầu Giây – Liên Khương, Gò Dầu – Xa Mát, Chơn Thành – Đức Hòa, Chơn Thành – Gia Nghĩa, tiếp tục đầu tư mở rộng các tuyến cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây, TP.HCM – Trung Lương – Mỹ Thuận theo quy hoạch.
Giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn giao thông Đông Nam Bộ
Vùng Đông Nam Bộ bao gồm 6 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước và Tây Ninh. Nhiều năm qua vùng vẫn luôn giữ vững vị trí đứng đầu cả nước về quy mô GRDP và thu ngân sách nhà nước. Năm 2020, GRDP của Đông Nam Bộ chiếm khoảng 33% GDP, tổng thu ngân sách chiếm khoảng 36% cả nước.
Về đường bộ: dự án đường Vành đai 3 TP.HCM chia thành 8 dự án thành phần thực hiện theo hình thức đầu tư công, đi qua địa bàn 3 tỉnh (Đồng Nai, Bình Dương, Long An) và TP.HCM, tổng mức đầu tư hơn 75.300 tỷ đồng.
*Xem thêm: TP HCM triển khai 2 dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm hơn 12.000 tỷ đồng tại khu Đông
Về đường sắt: Nâng cấp tuyến đường sắt Bắc – Nam và khu đầu mối TP. HCM hiện có để nâng cao hiệu quả khai thác đường sắt. Đầu tư đưa vào khai thác các tuyến đường sắt đô thị TP. HCM, nghiên cứu đầu tư tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành, tuyến đường sắt Biên Hòa – Vũng Tàu, tuyến đường sắt TP. HCM – Cần Thơ.
Về đường hàng không: Đầu tư đưa vào khai thác nhà ga T3 sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Long Thành giai đoạn 1 và tiếp tục đầu tư giai đoạn 2 để nâng công suất lên 50 triệu hành khách/năm, nâng cấp sân bay Côn Đảo, khôi phục sân bay Biên Hòa – Vũng Tàu.
Về đường thủy: Cải tạo, nâng cấp và hoàn thành đưa vào cấp kỹ thuật các luồng tuyến vận tải thủy nội địa như các tuyến TP. HCM đi Kiên Lương, TP. HCM đi Cà Mau, TP.HCM đi Bến Kéo, TP.HCM đi Bến Súc…
Nâng cấp luồng hàng hải vào cụm cảng Cái Mép – Thị Vải, luồng Soài Rạp, kêu gọi đầu tư các cảng biển, trung tâm logistic Cái Mép Hạ, các cảng cạn trong vùng để hình thành các trung tâm logistic lớn, hoàn thành di dời các cảng trên sông Sài Gòn, xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ.
Phát triển đồng bộ hệ thống logistics cấp quốc gia, khu vực và quốc tế gắn với cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, các hành lang kinh tế trọng điểm, xây dựng trung tâm logistic hàng không gắn với sân bay Long Thành, đầu tư phát triển hệ thống logistics gắn với cảng biển tại Bà Rịa – Vũng Tàu và TP. HCM.